0908.326.779 - 0906.362.707
 

Chú trọng Sở hữu trí tuệ trong CMCN 4.0 là nhu cầu tất yếu để đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế

25/10/2019    4.6/5 trong 5 lượt 
Chú trọng Sở hữu trí tuệ trong CMCN 4.0 là nhu cầu tất yếu để đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế
Để có thể tận dụng tối đa các lợi ích và chủ động đương đầu với các thách thức từ CMCN 4.0. Một trong những yếu tố quan trọng hiện nay chính là nâng cao năng lực nhận thức về lĩnh lực sở hữu trí tuệ và bản quyền đối với các sản phẩm được tạo ra từ công nghệ 4.0

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) được xem là cơ hội vàng để các nước đang phát triển tận dụng thành tựu khoa học công nghệ để xúc tiến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.

Theo ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho hệ thống sở hữu trí tuệ hiện nay là phải được xây dựng và vận hành thật sự hiệu quả, đóng vai trò kiến tạo cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

dinh huu phi

Ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam

“Vấn đề sở hữu trí tuệ đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia và bản thân mỗi quốc gia riêng rẽ không thể xử lý được”, ông Đinh Hữu Phí nhấn mạnh . Cách mạng công nghiệp 4.0 với internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ phần mềm, các mô hình kinh doanh mới… đặt ra những vấn đề cấp bách về chuyên môn. Đó là các vấn đề liên quan tới xác lập quyền trong xử lý đơn liên ngành hay ứng dụng AI vào xử lý đơn, sử dụng big data cho hoạt động của cơ quan sở hữu trí tuệ và bảo hộ AI cùng những kết quả tạo ra từ AI…

Ông Đỗ Thiên Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, đào tạo và hỗ trợ, tư vấn, Cục Sở hữu trí tuệ, cho biết, Cơ quan sáng chế châu Âu thống kê mỗi năm nhận hơn 5.000 đơn sáng chế liên quan đến IoT và số đơn tăng 54% chỉ trong 3 năm. Điều này khẳng định, các đơn sáng chế thuộc các lĩnh vực công nghệ thông minh sẽ gia tăng nhanh chóng cùng với sự ra đời của các vật liệu mới và các sáng chế được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo. Sự phát triển này cũng đặt ra thách thức không nhỏ trong việc bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp, ví dụ như bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho các sản phẩm in bằng công nghệ 3D.

Để giải quyết vấn đề này, theo ông Đỗ Thiên Hoàng, trước hết cần hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để giải quyết các đối tượng mới phát sinh và tăng cường hợp tác quốc tế. Đối với cơ quan quản lý, thực thi quyền cần nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ mới vào quản lý, xử lý đơn, chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực. Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, cần có hướng dẫn về quản lý và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ…

Luật sư Nguyễn Minh An cho rằng, với sự bùng nổ của công nghiệp IoT, các nhà sáng chế cần đăng ký bằng sáng chế cho sản phẩm của mình càng sớm càng tốt. Khi viết đơn đăng ký sáng chế, cần chú ý những vấn đề quan trọng, như: Phạm vi bảo hộ ngoài quốc gia để tăng khả năng và phạm vi được bảo vệ; đa dạng hóa một sáng chế ở nhiều định dạng hay biểu đạt bằng nhiều cách để tăng tối đa tính bảo vệ; lường trước những hoàn cảnh sử dụng sáng chế…

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Công Tạc cũng khẳng định: "Trong thời đại 4.0, sở hữu trí tuệ trở thành một trong những công cụ được sử dụng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế".

Quyền SHTT sẽ trở thành công cụ quyết định sức mạnh cạnh tranh của công nghệ đối với các chủ thể khiến mọi tổ chức, doanh nghiệp phải tìm cách tạo ra, nắm và sở hữu tài sản trí tuệ để phát triển bền vững.

Đối với doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ là tài sản vô hình của doanh nghiệp – ngày càng khẳng định vai trò là yếu tố cơ bản tạo nên giá trị của doanh nghiệp và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, giá trị tài sản trí tuệ ngày càng lớn hơn so với giá trị các tài sản hữu hình khác, điều này được minh chứng qua các tập đoàn đa quốc gia như Apple, Google, IMB.

Vì thế, mặc dù nền móng cho hoạt động sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã được xây dựng một cách tương đối vững chắc nhưng hiện trạng của chính hệ thống này cũng như mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đang đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao như phải tạo môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

luat so huu tri tue

Trước thực trạng hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng, với sự phối hợp của các Bộ, ngành liên quan (Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Y tế, Tài chính, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giáo dục và Đào tạo…) và sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới.

Nội dung Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 gồm ba phần: Quan điểm chỉ đạo, Mục tiêu và Nhiệm vụ, giải pháp. Chiến lược cũng xác định một số đề án, nhiệm vụ cần được ưu tiên thực hiện cho giai đoạn đến năm 2025 - đây là một trong những nhiệm vụ tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động sở hữu trí tuệ ở cả ba lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng trong thời gian tới. Các hợp phần nội dung của Chiến lược được xây dựng theo chu trình của hoạt động sở hữu trí tuệ, bao gồm các khâu sáng tạo, xác lập, bảo vệ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ.

Chiến lược định hướng sự phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam trong giai đoạn tới theo ba quan điểm chỉ đạo lớn, đó là:

- Phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ đồng bộ, hiệu quả ở tất cả các khâu sáng tạo, xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đưa sở hữu trí tuệ trở thành công cụ quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Chính sách sở hữu trí tuệ là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia và các ngành, lĩnh vực.

- Hoạt động sở hữu trí tuệ có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân hoạt động sáng tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ.

Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo đó, Chiến lược đặt ra 5 nhóm mục tiêu phấn đấu đạt được, cụ thể là:

- Đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ.

- Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, công bằng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội.

- Hiệu quả thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ được nâng cao rõ rệt, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giảm đáng kể.

- Tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam gia tăng cả về số lượng và chất lượng, cải thiện vượt bậc các chỉ số về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu

Vũ An