Hoạt động sở hữu trí tuệ có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân hoạt động sáng tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là “Chiến lược”).
Chiến lược do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng, với sự phối hợp của các Bộ, ngành liên quan (Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Y tế, Tài chính, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giáo dục và Đào tạo…) và sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới. Đây là lần đầu tiên Việt Nam ban hành một chiến lược mang tầm quốc gia về sở hữu trí tuệ, đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khẳng định sở hữu trí tuệ là công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo cũng như phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 gồm ba phần: Quan điểm chỉ đạo, Mục tiêu và Nhiệm vụ, giải pháp. Chiến lược cũng xác định một số đề án, nhiệm vụ cần được ưu tiên thực hiện cho giai đoạn đến năm 2025 - đây là một trong những nhiệm vụ tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động sở hữu trí tuệ ở cả ba lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng trong thời gian tới. Các hợp phần nội dung của Chiến lược được xây dựng theo chu trình của hoạt động sở hữu trí tuệ, bao gồm các khâu sáng tạo, xác lập, bảo vệ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ.
Chiến lược định hướng sự phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam trong giai đoạn tới theo ba quan điểm chỉ đạo lớn, đó là:
- Phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ đồng bộ, hiệu quả ở tất cả các khâu sáng tạo, xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đưa sở hữu trí tuệ trở thành công cụ quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Chính sách sở hữu trí tuệ là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia và các ngành, lĩnh vực.
- Hoạt động sở hữu trí tuệ có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân hoạt động sáng tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ.
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo đó, Chiến lược đặt ra 5 nhóm mục tiêu phấn đấu đạt được, cụ thể là:
- Đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ.
- Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, công bằng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
- Hiệu quả thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ được nâng cao rõ rệt, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giảm đáng kể.
- Tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam gia tăng cả về số lượng và chất lượng, cải thiện vượt bậc các chỉ số về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu.
Ở một diễn biến khác, mới đây, trong hai hội thảo liên tiếp diễn ra tại Hà Nội và TP.HCM về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều chuyên gia, nhà khoa học đã cùng nhau thảo luận về yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực của cơ quan sở hữu trí tuệ trong việc xử lý đơn đăng ký các đối tượng mới. Áp dụng chính xác công nghệ mới trong việc vận hành cơ quan sở hữu trí tuệ, đặc biệt là công nghệ blockchain, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, phải thúc đẩy hợp tác về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở quy mô khu vực và toàn cầu, vì nhiều vấn đề sở hữu trí tuệ đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia và bản thân mỗi quốc gia riêng rẽ không thể xử lý được.
Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu, Đào tạo và Hỗ trợ, Tư vấn (Cục Sở hữu trí tuệ) Đỗ Thiên Hoàng cho biết, theo thống kê, năm 2016 có hơn 5.000 đơn sáng chế liên quan đến intetnet vạn vật (IoT) đã được nộp tại Cơ quan sáng chế châu Âu và tăng trưởng 54% chỉ trong ba năm 2014-2016.
Điều này khẳng định, các đơn sáng chế thuộc các lĩnh vực công nghệ thông minh sẽ gia tăng nhanh chóng cùng với sự ra đời của các vật liệu mới và các sáng chế được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo. Việc thực thi quyền trong môi trường số sẽ trở nên khó khăn hơn, vì vậy, các chính sách cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng để vừa không ngăn cản sự phát triển khoa học và công nghệ, vừa bảo đảm an ninh, bảo mật và bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ thỏa đáng.
Với kinh nghiệm ở nước sở tại, ông Manabu Niki, Trưởng bộ phận Hợp tác quốc tế, Cơ quan sáng chế Nhật Bản (JPO) cho biết ngay từ năm 2017, cơ quan này đã có kế hoạch sử dụng trí tuệ nhân tạo vào các khâu của lĩnh vực sở hữu trí tuệ như: Quyết định phân loại sáng chế; tra cứu tình trạng kỹ thuật, kiểu dáng, nhãn hiệu… có trước; tra cứu các sản phẩm dịch vụ đã xác định.
Cùng với sự gia tăng nhanh chóng số lượng thiết bị IoT (internet kết nối vạn vật) và mở rộng nhanh chóng thị trường đám mây trong ngành công nghiệp dịch vụ IT, số lượng đăng ký các thiết bị IoT và trình duyệt web ở Nhật Bản đã tăng lên đáng kể hàng năm.
Do đó, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, Cơ quan sáng chế Nhật Bản cũng đã bổ sung các ví dụ về công nghệ IoT vào cuốn cẩm nang thẩm định và xuất bản trước các nước khác; đồng thời, thành lập "Đội thẩm định IoT" bao gồm thành viên là những người có kinh nghiệm với những sáng chế IoT để học hỏi và chia sẻ chuyên môn