Lợi ích nhiều mặt cho sức khỏe của dầu cá và axít béo omega-3 được nhiều người nhìn nhận nhưng có những nghiên cứu khoa học không cho kết quả giống nhau về lợi ích đó
Một số người không phân biệt được sự khác nhau giữa dầu cá và dầu gan cá tuyết. Dầu cá được trích xuất từ mô của các loại cá béo biển sâu như cá ngừ, cá thu, cá trích, cá hồi, trong khi dầu gan cá tuyết có nguồn gốc đúng như tên gọi. Dầu cá chứa nhiều axít béo omega-3 nhưng ít vitamin A và D hơn so với dầu gan cá tuyết.
Nguồn gốc và lợi ích
Axít béo omega-3 là dạng chất béo được tìm thấy ở vài loại thực vật và một số loài cá. Khi đề cập đến axít béo omega-3 ở cá, người ta thường nói đến eicopentaenoic acid (EPA). Bản thân cá không sản sinh EPA nhưng có được EPA nhờ ăn tảo algae. Dạng axít béo omega-3 khác là docosahexaenoic acid (DHA) - vốn là thành phần chủ yếu ở võng mạc, tinh dịch và vỏ não. DHA chiếm 40% trong tổng số axít béo đa không bão hòa (PUFA) ở não, 60% trong PUFA võng mạc và một nửa trọng lượng màng huyết tương thần kinh. Thêm vào đó, sữa mẹ rất giàu DHA.
Người ăn chay dễ có nguy cơ thiếu axít béo omega-3 nên có thể dùng thực phẩm chức năng bổ sung hoặc có chế độ ăn với thực vật giàu omega-3. Cần lưu ý rằng lợi ích của omega-3 có thể giảm thiểu do xử lý qua nhiệt quá nhiều.
Nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ tại ĐH Connecticut nêu khả năng thai phụ dùng dầu cá ít nguy cơ bị trầm cảm sau khi sinh. Một khảo sát được công bố hồi năm 2008 cho thấy việc dùng omega-3 vào 3 tháng cuối thai kỳ có thể giúp cải thiện sự phát triển về cảm xúc, nhận thức và vận động của trẻ nhỏ. Một nghiên cứu khác nêu khả năng liều dùng từ 8-16 g EPA và DHA hằng ngày, có thể giúp cải thiện đáng kể ở những trẻ em bị rắc rối về hành vi, đặc biệt đối với trẻ bị rối loạn tăng động thiếu chú ý (ADHD). Khẩu phần ăn chứa nhiều DHA cũng giúp giảm thiểu nguy cơ suy thoái thị lực do tuổi già, theo khảo sát của nhóm nghiên cứu người Canada được công bố trên tạp chí Investigative Ophthalmology & Visual Science. Một nghiên cứu được công bố trên tờ Nature Communications nêu chi tiết về khả năng kéo giảm triệu chứng bệnh tâm thần phân liệt và rối loạn tâm thần bằng cách bổ sung omega-3 trong 12 tuần. Mặt khác, vài khảo sát cho thấy tác dụng kéo giảm tần suất và độ nặng của chứng động kinh, trợ giúp trí nhớ và giảm căng thẳng tâm thần của omega-3.
Nghiên cứu nêu khả năng thai phụ dùng dầu cá có lợi ích về sau cho cả mẹ và conẢnh: EXPRESS
Kết quả nghiên cứu không thống nhất
Trong 10 năm qua, đã có hàng chục nghiên cứu ghi nhận lợi ích của dầu cá và axít béo omega-3 nhưng đồng thời cũng có lập luận không đồng ý về những lợi ích đó. Thí dụ như từ lâu dầu cá được xem là có thể giúp điều trị bệnh đa xơ cứng (MS) nhưng một khảo sát của nhóm thầy thuốc Na Uy tại Bệnh viện ĐH Bergen không cho thấy tác dụng nêu trên. Một nghiên cứu từng phát hiện rằng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt có thể giảm thiểu nhờ vào dầu cá với điều kiện bệnh nhân kèm theo chế độ ăn ít béo. Tuy nhiên, một khảo sát được công bố trên tạp chí của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ nêu khả năng dùng dầu cá liều cao làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt dạng dễ gây tử vong lên thêm 71% và mọi dạng ung thư tuyến tiền liệt lên thêm 43%. Theo khảo sát được công bố trên tạp chí Neurology, hồi năm 2007, việc dùng dầu cá và thực phẩm khác giàu omega-3 có thể giúp kéo giảm nguy cơ bệnh Alzheimer nhưng một khảo sát qui mô lớn vào năm 2010 cho thấy tác dụng của omega-3 đối với bệnh Alzheimer không đáng kể hơn so với giả dược. Về trợ giúp trí nhớ, một khảo sát được công bố trên tạp chí PLOS ONE cho thấy tác dụng của omega-3 ở tuổi trẻ nhưng nhóm nghiên cứu người Mỹ tại ĐH Iowa chứng minh omega-3, dù liều cao, cũng không có tác dụng như vậy ở phụ nữ lớn tuổi.
Nhiều ngưởi tin rằng việc bổ sung dầu cá có lợi ích cho tim mạch nhưng những nghiên cứu khoa học không cho thấy kết quả giống nhau. Nhóm nghiên cứu người Mỹ tại ĐH Công nghệ Michigan phát hiện việc dùng dầu cá có thể cải thiện dòng máu chảy vào tim do tác dụng giảm mức độ triglyceride và làm chậm sự tăng trưởng của mảng bám xơ vữa động mạch. Tuy nhiên, một khảo sát tổng kết 20 nghiên cứu liên quan đến 70.000 người đã không phát hiện bằng chứng thuyết phục cho thấy việc bổ sung dầu cá có thể kéo giảm nguy cơ xảy ra cơn đau tim, đột quỵ và tử vong sớm.
Dù sao, vẫn có nhiều lập luận cho rằng chế độ ăn gồm nhiều cá của cư dân Nhật Bản khiến họ ít bị bệnh tim và những biến chứng liên quan đến tim mạch hơn, so với chế độ ăn nhiều thịt của người Mỹ, châu Âu, Úc và Canada và xem đó là bằng chứng rõ rệt về lợi ích cho tim của dầu cá.
Axít béo omega-3 không chỉ có nhiều trong các loại cá béo mà còn được tìm thấy trong thực phẩm khác như:
- Các loại hạt như hạt lanh, óc chó, hạt chia, hạt bắp cải đỏ, hạt gai dầu và vài loại hạt thô nảy mầm.
- Trứng (đặc biệt là loại trứng có ghi “giàu omega-3”.
- Các loại rau có lá xanh sậm như bó xôi và vài rau
gia vị.
- Tảo xoăn và vài loại tảo khác.